Virus bệnh bại liệt
Virus bệnh bại liệt là virus ARN thuộc họ Picorniivirithic, được tìm ra từ năm 1909; virus có dạng hình cầu. kích thước 1 2 - 1 7 nm, lây qua đường hô hấp và đường licu hóa; bài tiết qua niêm mạc mũi họng, qua ami d a n , t u yến nưức bọt và phân. Phân c h i a l àm 3 typ I, II và III, được xếp vào loại virus đường ruột, có ái tính đặc biệt đối với tế bào thẩn kinh vận động ờ sừng trước tủy và tế bào thần kinh vận động ò não.
Có nhiéu phương pháp thăm dò virus bệnh bại liệt trẻ em:
a) Phân lập virus: sau khi nuôi cấy trên tế bào thận khỉ hoặc tiêm truyền qua khỉ từ các chất tiết mũi, họng hoặc phân bệnh nhân.
b) Phàn ứng kết hợp bổ thể cho huyết thanh bệnh nhản tiếp xúc với kháng nguyên pha chế từ các týp virus biết sẵn. Phản ứng dương tính khi bị bệnh bại liệt, hiệu giá dương tính thường thấp (>1/16), xuất hiện ngay từ khi bị bệnh và kéo dài trong 2 tháng, sau trở lại âm tính.
Có giá trị để chẩn đoán phân biệt với các bệnh gây liệt khác.
(■) Phản ứng trung hòa: cho huyết thanh bệnh nhân hoặc người đã khỏi bệnh tiếp xúc với các virus mẫu nuôi cấy trên các tổ chức. Tác dụng bảo vệ đặc hiệu của mỗi mẫu virus (không gây tổn thương tế bào nữa) giúp cho việc định loại và chuẩn độ kháng thể. Salk. đề nghị dùng phản ứng màu dựa trên nguyên tắc kiểm tra sự chuyển màu đỏ của phenol, bình thường xuất hiện trên các tế bào nuôi cấy nhưng sẽ đổi màu nếu các tế bào đó bị virus xâm nhập và phá hoại.