Tinh dịch
Tinh dịch là một chất dịch có chứa tinh trùng. Chất dịch là chất tiết cùa nhiều cơ quan sinh dục phụ: tinh hoàn, mào tinh hoàn, ống dẫn tinh, túi tinh, tuyến tiền l iệt , các tuyến của niệu đạo và hành niệu đạo.
Sự phóng tinh bắt đầu bằng vài giọt chất dịch của các tuyến niệu đạo và hành niệu đạo, sau đó đến chất dịch cùa tuyến tiền liệt thông thường không chứa tinh trùng, rồi đến chất dịch của túi tinh chứa tinh trùng, và cuối cùng là phần quánh cùa chất dịch túi tinh.
Qua nồng độ phosphatase acid, có thể ước đoán số lượng của chất dịch tuyến tiển liệt, qua sô lượng tinh trùng, khả nàng hoạt động cùa tinh hoàn, qua nồng độ g luc o s e , số lượng của chất dịch túi tinh.
Xét nghiộm tinh dịch trong các trường hợp:
- Tìm nguyên nhân vô sinh
- Kiểm tra lậu cầu khuẩn sau mỗi đợt điều trị bệnh.
1. Lấy bệnh phẩm
Những điểu kiện cần thiết để xét nghiêm có kết quả:
- Cần nghỉ ngơi 3 - 7 ngày không giao hợp để tinh dịch chứa được nhiều tinh trùng. Những đợt giao hợp gần nhau quá làm cho tinh dịch loãng và tinh trùng có thể yếu đi.
- Xét nghiệm tinh trùng trong vòng 3 giờ sau khi xuất tinh.
- Kh ô n g nên đựng tinh dịch bằng những dung cu c a o su vì người ta đã có thể rắc bột sát khuân vào những dung cụ đó trong khi bảo quản.
Nên gây xuất tinh ngay tại phòng xét n gh i ệm, trong một buồng riêng. Tinh dịch đựng vào trong một hộp Petri vô khuẩn sau đó đặt vào tủ ấm 3 7 ° c cho đến khi thật lỏng.
2. Xét nghiệm vật lý, sinh hóa học
Tinh dịch là một chất dịch tương đôi đặc, màu trăng trắng, có mùi đặc biệt. Sô lượng mỗi lần xuất tinh 2 - 5 ml. Dưới 1,5 ml coi là ít, không bình thường.
Phản ứng hơi kiềm, pH vào khoảng 7,0 đến 7,5; tỳ trọng 1,020 - 1,040 Tinh dịch dông nhanh sau khi xuất tinh do tác dụng của một loại men (từ tuyến tiền liệt) tác động đến một loại protein giống như fibrinogen do túi tinh tiết ra; 15 phút sau, tinh dịch lại hóa lỏng do tan cục đông dưới ảnh hường cùa một loại men kiểu plasmin cũng do tuyến tiền liệt tiết ra; các protein cũng bị thủy phàn thành acid và ammoniac.
Dịch tuyến tiền liệt chiếm 20% thể tích tinh dịch, không màu, pH 6,5 vì có acid citric, chứa nhiều men tiêu protein, đặc biệt nhiẻu phosphatase acid.
Dịch túi tinh chiếm 60% thể tích tinh dịch, màu hơi vàng do có các chất flavin, đôi khi có các màu khác sảm do các sắc tố khác, chưa nhiểu kali, acid ascorbic, fructose, phosphorylcholin.
Tinh trùng chiếm 10% thể tích tinh dịch.
Nồng độ các chất sinh hóa học có trong tinh dịch: Gần đây, ncười ta chú ý nhiéu đến pros taglandin, chất này có trong tinh dịch với nóng dỏ khá cao 25 ue /ml .
3. Xét nghiệm té bào và vi sinh vật
Tùy theo yêu cầu về xét nghiệm, có thể:
. Xét nghiệm tươi trực tiếp: để xem cừ động cùa tinh trùng, xét nghiệm tế bào.
. Xét nghiệm sau khi nhuộm: nhuộm Giemsa để xem tế bào và hình thái tinh trùng, nhuộm Gram để phát hiện vi khuẩn.
. Đếm tinh trùng: dùng ống hút Potain bạch cẩu, hòa tinh dịch tỷ lộ 1/10 trong nước muối có formol (10 ml nước muối sinh lý + 1 ml formol dung dịch 40%), trộn lẫn, nhỏ vào huyết cầu kế đếm như khi đếm bạch cẩu. Sau đó tính ra số tinh trùng trong toàn bộ lần xuất tinh.
Kết quả:
a) Vẻ t ế bào: bình thường thấy một ít tế bào biểu mô
các ống tiết, khoảng 4 - 5 bạch cầu trong mỗi vi trường, cà tế bào biểu mô và bạch cầu không quá 500 - 2.000 trong 1 JJ.1 tinh dich, nếu so với tinh trùng thường không quá 0,5 đến 2% sỏ' lượng tinh trùng. Ngoài ra còn có hạt mỡ.
Nếu quá 2%, đồng thời có một sô tê bào bị hủy hoại: tinh dịch có mù biểu hiện trạng thái nhiễm khuẩn của tinh hoàn, mào tinh hoàn, tuyến tiển liệt ...
b) Về vi khuẩn: có thể phát hiện loại lậu cầu khuẩn Gram (-).
Muốn cho thật chính xác, người ta cấy tinh dịch vào môi trường, khi cấy, phải bảo đảm thật vô khuẩn thì mới có kết quả.
- Hình thể tinh trùng: tinh trùng ở thể bình thường có 3 phần:
. Phần đầu
. Phán giữa
. Phần đuôi.
Ở chỗ nối đuôi và phần giữa có cục nguyên sinh chất phồng lên, có tác dụng như quả lắc giúp tinh trùng làm những động tác đi tới.
Dị dạng thường gập:
. Dị dạng ờ đẩu: hay gặp nhất và quan trọng nhất; đầu có thể bé lại, to lên, dài ra, tròn, biến dạng, không có hình thái rõ rệt.
. Dị dạng ờ phần giữa như dày lên, phổng lên. . .
. Dị dạng ờ duôi như trục lệch, sợi trục trần, thiếu đuôi...
Có thể gặp những thể phân đỏi như đầu đôi , phần giữa đôi, đuôi đôi mang tính chất thoái hóa; những thể thoái hóa khác còn biểu hiện ở những đầu có sọc, có chỗ màu sắc lấm tấm hay một màu sắc đồng nhạt.
Cũng còn có thể gặp những thể non trường thành sớm nhưng thường là hiếm, chỉ thấy ờ những ngưòi vô sinh: nguyên sinh chất bọc đầu thành cục tròn, không có
đuôi hoặc đuôi thỏ sơ. Tất cả những thể bất thường này chi có giá trị khi có nhiéu tinh trùng như vậy, khi số lượng môi thể vượt tỷ lệ 2% tổng số; nếu chi thây vài con thì chi là thay đổi sinh lý. Tinh dịch được coi là tốt khi tổng sỏ các thê bất thường không quá 15 - 20%; từ 20 - 4 0 Vc khả năng thụ thai đã giảm; nếu quá 40%, khả năng thụ thai rất kém.
- Hoạt dộnỉị của tinh triinẹ: muốn xem hoạt động của tinh trùng, phải xem tinh dịch lúc còn tươi, ở nhiột độ 3 7 ° c . Tinh trùng hoạt động được đến 50 giờ sau khi xuất tinh. Những tinh trùng yếu không tốt cho thụ thai thường chết sau khi giao hợp 15 phút. Tinh dịch tốt nhắt phải bào đảm trên 80% tinh trùng còn hoạt động sau khi giao hợp 1 giờ, 60% sau 3 giờ, 50% sau 12 giờ, 25 % sau 18 giờ. Nếu số lượng tinh trùng hoạt dộng giảm nhiều thì khả năng thụ thai rất kém. Cần phải xem cả sự hoạt động đó có mạnh hay yếu để đánh giá chung.
- Sô'lượnẹ tinh trùnẹ: nếu tinh dịch mỗi lẩn xuất tinh có:
. >185 triệu con: tinh dịch tốt.
. Từ 185 triệu đến 80 triệu con: tinh dịch bình ihường.
. <80 triệu con: tinh dịch xấu, khả năng thụ thai kém.
Ý kiến chung còn nhiểu bất đồng nhưng một số tác giả thống nhất cho rằng ít nhất phải là 60 triộu con/ml thì mói thụ thai được; một số khác lại cho rằng với 30 - 40 triệu/ml cũng vẫn phải coi là bình thường, thụ thai dược, chất lượng tinh trùng quan trọng hơn.
Khi xét nghiệm không thấy tinh trùng trong tinh dịch, thì cần phải ly tâm tinh dịch, lấy lắng cặn đem soi kính hiển vi; nếu vẫn không thấy thì nôn làm lại cho chính xác.
Trước khi kết luận là bệnh lý, cũng cỉn phần tích loại trừ những trường hợp không có tinh trùng tạm thòi do nhiéu nguyên nhân như mệt nhọc, giao hợp quá nhiều, trong các bộnh nhiễm khuẩn cấp tính, viêm họng, cúm. . . Vi ệ c kiểm tra lại sau 2 tháng là cần thiết , chi kiểm tra một lần dễ bị sai.Để chẩn đoán chứng vô sinh, còn có thể kiểm tra tinh trùng trong chất tiết lấy ở ngoài hoặc trong cổ tử cung của vợ sau khi giao hợp 8 - 1 2 giờ trong thời kỳ phóng noãn; chất tiết lấy ra chỉ có giá trị nếu không lẫn mủ, máu... nói chung phải sạch. Xét nghiệm có thể thấy:
- Dương tính: khi tinh trùng cử động còn tốt:
. Tốt: >10 tinh trùng trong một vi trường
. Vừa: 3 - 1 0 tinh trùng trong một vi trường
. Yếu: 1 - 3 tinh trùng trong một vi trường
. Kém: khi tinh trùng ít cừ động hoặc khòng cú dóng nữa, từ 3 - 10 tinh trùng trong một VI trường.
- Âm tính: không thấy tinh trùng. Trường hợp dương tính tốt, thì có thẻ miẻn kiểm tra toàn bộ tinh dịch người chồng mà chi kiểm tra người vợ.