Kết quả của xét nghiệm dịch vị
1. Dịch vị khi đói
- Không có dịch vị, cần kiểm tra xem có bị tắc ống
Einhorn và quả trám không? Có thể bơm 500 ml nước vô khuẩn vào dạ dày, liền sau đó hút lại. Nếu thu hồi được tất cả nguyên vẹn và nước trong: dạ dày không có dịch vị thực. Nếu thu hồi được tất cả hay một phần mà nước rất bẩn nhất là có thức ăn dở: đúng là tắc do thức ăn.
- Nếu trong dịch vị có các chất ăn đang tiêu hóa dở: chắc chắn có nước ứ đọng, nghĩ đến chướng ngại ờ môn vị hoặc c'o hẹp môn vị, hoặc do co thắt môn vị, có thể do viêm, loét gần môn vị gây phù nề niêm mạc làm hẹp môn vị.
- Nếu dịch vị trong (loại trừ dịch mật trào ngược lên dạ dày làm dịch vị có màu vàng và đạc), theo dõi số lượng dịch vị khi đói lấy ra:
Bình thường: 30 - 80 ml, trung binh 40 ml
. Tăng >200 ml khi có đa tiết dịch vị
. Giảm <30 ml trong thiểu tiết dịch vị. chất này có thể định lượng trong nước tiểu được.
Xét nghiệm này chỉ có giá trị khi số lượng của dich VỊ tăng cao vì có thể xảy ra trường hợp dịch vị thoát nhanh khỏi dạ dày.
- Tính lưu lượng a c id cơ bàn (BAO):
. Bình thường: 1 , 5 - 2 mmol/h.
. Tăng >6 mmol/h trong loét tá tràng, tăng cao hơn >15 mmol/h trong hội chứng Zollinger-Ellison.
. Giảm trong viêm teo dạ dày
. Không có trong thiếu máu Biermer.
2. Dịch vị sau khi đă rửa dạ dày
- Bình thường: chỉ thấy trên phiến đồ chất cặn một vài tế bào biểu mô của dạ dày.
- Viêm và loét dạ dày: thấy nhiêu tế bào biổu mô hư hỏng và nhiẻu bạch cẩu, có khi thấy cả hồng cẩu nếu có chảy máu nhỏ.
- Ung thư dạ dày: có thể thấy các tế bào kể trên, nhất là thấy các tế bào ung thư không lồ (nhân rất to, sẫm màu, dị hình và có gián phân), các tế bào ung thư này thường tụ thành đám. Ngoài ra còn thấy cả hồng cẩu.
3. Dịch vị sau khi được kích thích bằng thuốc
Để kiểm tra độ acid và pepsin của dịch vị.
Độ acid của dịch vị (còn gọi là độ toan) được biếu thị bằng gam HC1 hoặc mEq/1, mmol/1. Người ta phân loại 2 loại độ acid:
. Độ acid toàn phẩn
. Độ acid tự do (còn gọi là HC1 tự do).
Bình thường, hai loại này diỗn biến song song với nhau và khi độ acid toàn phần <0,36 g/1 thì không có độ acid tự do. Pepsin được niêm mạc dạ dày tiết ra dưới dạng pepsinogen chuyển thành pepsin hoạt động do tác dụng của HC1; một phần pepsinogen vào máu, bài tiết qua thận dưới dạng uropepsinogen trong nước tiểu; ngoài định lượng trong dịch vị, có thể định lượng pepsinogen trong máu và uropepsinogen trong nước tiểu.
Kết quá:
a) Trường hợp sau khi tiêm pentagastrin
Đáp ứng của các tế bào thành dạ dày có thể tính theo:
- Lưu lượng acid tối đa (MAO, maximal acid output) là lượng acid tiết ra trong giờ đầu sau tiêm pentagastrin (mmol/h).
- Hoặc lưu lượng acid đỉnh cao (PAO, peak acid output; PAH, pic acide horaire): đỉnh này được tính là tổng của 2 lưu lượng cao nhất của 2 mẫu liền nhau rồi nhân với 2. PAO phụ thuộc vào giới tính, tuổi, cân nặng.
Trị số trung bình của PAO (mmol/h) theo một số tác giả (Bernier và cs):